TƯ VẤN DU LỊCH ĐÀ LẠT MIỄN PHÍ
Hotline: 02633912999
VUA
BẢO ĐẠI
CÂU CHUYỆN CUỘC ĐỜI CỦA VUA BẢO ĐẠI
Vua Bảo Đại (1913-1997) tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy là con trai duy nhất của Vua Khải Định và Từ Cung Hoàng Thái Hậu. Ông là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn nói riêng và của chế độ phong kiến Việt Nam nói chung. Về thân thế của ông cho tới nay vẫn còn khá nhiều nghi ngờ vì Vua Khải Định mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà.
Vua Bảo Đại trong bộ đồ truyền thống $ đồ Tây
Năm 1922 vua Khải Định sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc
triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp và nhân dịp này có mang theo Hoàng Thái
Tử Vĩnh Thụy và để ông này ở lại du học. Tháng 6 năm 1922 Vĩnh Thụy được vợ chồng
Khâm sứ Trung Kỳ Jean Francois Eugène Charles nhận làm con nuôi và cho đi học ở
trường Lycée Condorcet và trường Sciences Po tại Paris.
Năm 1925 vua Khải Định băng hà, triều đình tôn Hoàng Thái Tử Vĩnh Thụy lên ngôi hoàng đế kế nghiệp vua cha vừa tạ thế lấy niên hiệu là Bảo Đại và là vị vua thứ 13 của triều Nguyễn. Lúc này ông mới vừa đúng 13 tuổi, sau đó trở lại Pháp tiếp tục việc học cho đến năm 1932 thì hồi loan và chính thức lên ngôi.
CUỘC
TÌNH VỚI NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU
Về Việt Nam được gần một năm, khi ông lên Đà Lạt nghỉ
mát, được sự sắp xếp của vị toàn quyền Pháp Pasquier và viên Đốc lý Darle (Thị
trưởng Đà Lạt) trong buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace, Nguyễn Hữu Thị Lan
và Bảo Đại đã gặp nhau. Sau này trở nên thân mật hơn và tiến tới hôn nhân. Bảo
Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông có viết: “Lan có vẻ đẹp thùy mị của người
con gái miền Nam, hiền lành quyến rũ làm tôi say mê”. Và khi Bảo Đại hỏi cưới
thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan đồng ý với 4 điều kiện:
1. Nguyễn
Hữu Thị Lan phải được tấn phong Chánh Cung Hoàng Hậu ngay trong ngày cưới.
2. Được
giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật
công giáo và giữ đạo.
3. Riêng
Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo
4. Phải
được Tòa Thánh cho phép đặc biệt 2 người lấy nhau và giữ 2 tôn giáo khác nhau.
Ngày 20 tháng 3 năm 1934 vua Bảo Đại tổ chức đám cưới
với bà Nguyễn Hữu Thị Lan tại điện Kiến Trung và bà được tấn phong là Nam
Phương Hoàng Hậu, lễ tấn phong được cử hành long trọng tại điện Dưỡng Tâm. Đây
là một biệt lệ với các chính cung của triều Nguyễn. Vì 12 đời Tiên Đế chỉ sắc
phong Hoàng Hậu sau khi chết, trước đó chỉ được phong tước Hoàng Quý Phi.
Nam Phương Hoàng Hậu đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Ngày 4 tháng 1 năm 1936 người dân sống ven kinh
thành Huế nghe những tiếng súng thần công bắn mừng báo tin Nam Phương Hoàng Hậu
đã hạ sinh, rạng sáng lại nghe thêm 7 tiếng súng nữa làm lay động cả Hoàng
Thành báo hiệu Hoàng Hậu đã hạ sinh một Hoàng Tử. Người đó chính là Đông Cung
Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long.
Nam Phương Hoàng Hậu có với Bảo Đại tất cả 5 người
con, 2 Hoàng Tử và 3 Công Chúa:
1. Hoàng
Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (1936-2007).
2. Công
chúa Phương Mai, sinh năm 1937.
3. Công
chúa Phương Liên, sinh năm 1938.
4. Công
chúa Phương Dung, sinh năm 1942.
5. Hoàng
tử út Bảo Thăng, sinh năm 1943.
Với nhan sắc mặn mà, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng
thành mang đậm chất Á Đông nhưng cuộc sống của Nam Phương lại không được hạnh
phúc. Sau khi triều Nguyễn suy vong bà đưa cả 5 người con qua Pháp sinh sống
vào năm 1949. Vua Bảo Đại cũng rất ít đến thăm bà và các con vì còn bận chuyện
triều chính và các bóng hồng khác. 12 năm đầu bà sống trong hạnh phúc tràn đầy
bao nhiêu thì 16 năm cuối đời bà sống trong cô đơn bấy nhiêu. Cuộc sống lưu
vong nơi đất khách quê người buồn nhiều hơn vui. Năm 1963, bà qua đời ở Pháp,
đám tang thưa thớt, không tiếng khóc than, không lời ai điếu.
THOÁI
VỊ - TRỞ VỀ CUỘC SỐNG THƯỜNG DÂN
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh buộc chính quyền Đế Quốc Việt Nam Cộng Hòa giao quyền lực. Trước tình thế đó, Vua Bảo Đại quyết định thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành công dân Vĩnh Thụy. Trong bản tuyên ngôn thoái vị ông có một câu nói rất nổi tiếng: “Trẫm muốn làm dân của một nước tự do, hơn làm Vua của một nước bị trị”.
Cựu hoàng Bảo Đại những năm cuối đời.
Năm 1946 ông đươc bầu làm đại biểu Quốc hội khóa đầu
tien của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không về nước mà ở lại
Hương Cảng Trung Quốc. Vua Bảo Đại viết thư về nước xin từ chức “cố vấn tối cao”
trong chính phủ lâm thời.
QUỐC
TRƯỞNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Năm 1947, tại Hồng Kông cựụ trùm mật thám Pháp ở
Đông Dương là Cousseau tiếp xúc với Vua Bảo Đại ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền
thành lập một nhà nước Việt Nam độc lập. Vua Bảo Đại và Pháp đàm phán và ký kết hiệp
ước Vịnh Hạ Long, thể hiện sự đồng thuận của hai bên trên cơ sở nguyên tắc độc
lập và thống nhất của Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp. Chính phủ hoạt động dưới một
hiến chương lâm thời, chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ và bản “Thanh niên
Hành Khúc” làm Quốc ca. Quốc gia Việt Nam sẽ có quân đội riêng .
Năm 1949, Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam được
thành lập theo sắc lệnh số 1 –Cp: Quốc Trưởng là Bảo Đại. Thời gian này ông sống
và làm việc tại Đà Lạt, xung quang nơi ở có cả một trung đoàn ngự lâm quân bảo
vệ, một đoàn xe riêng gọi là “công xa biệt điện” và một đội máy bay riêng do
phi công người Pháp phục vụ. Ông bị phế truất và đưa thủ tướng Ngô Đình Diệm
lên làm Quốc Trưởng ngày 4 tháng 10 năm 1955.
CUỘC
SỐNG LƯU VONG – NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI
Sau khị bị phế truất lúc mới 40 tuổi, ông sống lưu
vong ở Pháp cho đến khi qua đời. Lúc này ông không còn nhận được sự viện trợ từ
chính phủ Pháp, ông phải bán dần những tài sản và cổ vật của mình để sinh sống.
Năm 1972 ông kết hôn với bà Monique Baudot một người phụ nữ Pháp kém ông hơn 30
tuổi, gia nhập đạo Công giáo lấy tên Thánh là Jean – Robert.
Ông qua đời vào lúc 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm
1997 tại Quân y viện ValdeGrace hưởng thọ 85 tuổi. đám tang được tổ chức lặng lẽ
tại nhà thờ Saint-Pierre De Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và
linh cữu được mai tang tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero. Ông là vị vua thọ
nhất triều đại nhà Nguyễn.
Comments